- Trang chủ
- Đại Kiếm Sư
- Chương 25: Ôn nhu đích dạ
.navbar-toggle span { background: #fff; margin: 3px auto; }
Tác giả: Huỳnh Dị
Dưới ánh nắng ban mai ấm áp, bọn ta rời doanh trại đi dọc theo bờ sông, tiến lên hướng bắc.
Ta cỡi Phi Tuyết chạy sóng đôi với Thải Nhu, con Đại Hắc chạy lúc lắc phía trước. Tối qua, ăn theo uy danh của ta, Đại Hắc được cả đám Thái Dương chiến sĩ hoan nghênh, long trọng chiêu đãi, nó chén no căng, nên giờ lạch bạch chạy với cái bụng lặc lè.
Ny Nhã dẫn đầu hàng quân, cố tình tránh mặt ta.
Nguyên một đoàn xe dài chở đầy vật tư đang từ từ đi ngang qua thảo nguyên tuyệt đẹp của Tịnh Thổ. Với tốc độ này, theo lời Hầu Ngọc, nhanh nhất là phải mất mười ba ngày để đến được Phiêu Hương Thành, rồi phải mất thêm mười lăm ngày nữa mới đến Lập Thạch Bảo, một trong tám tòa thủ hộ thành bao quanh Thiên Miếu.
Tốc độ này khiến ta sốt ruột, ta phải gặp Tịnh Thổ mỹ nữ Ny Nhã để tìm một giải pháp khác vào đêm nay, mặc dù nàng đang cố tình tỏ ra lãnh đạm.
Linh Trí vỗ ngựa đến cạnh ta, cười nhẹ: “Vùng đất mà vó ngựa chúng ta đang dẫm lên chính là Lục Nhân Dã Nguyên, nằm giữa hai con sông Phiêu Hương và Thiên Mộng, địa danh nầy rất nổi tiếng ở Tịnh Thổ với đặc sản là sừng hươu sao với bầy ngựa hoang.”
Thải Nhu hiếu kì hỏi: “Phiêu Hương Thiên Mộng, nghe đẹp quá!”
Linh Trí hiền hòa cười, ngữ khí như đang nói với con gái “Phiêu Hương cùng với Thiên Mộng là hai ngôi sao sáng nhất trong mười tám ngôi sao, như hai hạt minh châu khảm trên trời cao.”
Thải Nhu hết sức cao hứng, hoan hỉ vừa cười vừa nói: “Đêm nay tế ti ngài phải hướng dẫn tiểu nữ cách nhận biết hai hạt minh châu đó nha!” Nói xong, nàng bất chợt nhìn lên trời cao, thần thái vô cùng khả ái, khiến ta chỉ muốn ôm ngay nàng vào lòng.
Ta cũng nhìn lên trời cao theo hướng của Thải Nhu, chỉ thấy một đám mây đen kịt đang kéo đến ở phía trước, khẽ thở dài: “Chỉ sợ đêm nay một ngôi sao cũng không thấy.”
Linh Trí cười, khẳng định: “Yên tâm đi, Lục Nhân Dã Nguyên ngoài hươu cùng với trâu, ngựa, thì nổi tiếng nhất chính là “Dã Mã Vũ”, ý là cơn mưa thoắt đến, thoắt đi bất chợt như một bầy ngựa hoang.” Trong mắt Linh Trí thoáng qua hồi ức, ông ta thở dài: “Nếu ngài từng thấy qua cảnh hàng vạn con ngựa hoang chạy cuồng loạn trên thảo nguyên rồi, thì ngài mới cảm nhận được sự hùng vỹ của nó.”
Ta nhớ lại cảnh bi tráng lúc bầy hươu vượt sông, lòng chợt thắt lại, tự hỏi là mình có mềm yếu quá hay không? Ngay cả động vật cũng làm ta mềm lòng. Nói cho đến cùng, sự phân biệt giữa người với thú chỉ ở chỗ hình thức của sinh mệnh, còn về bản chất thì chẳng có gì khác.
Hôm đó bọn ta đi đến tận hoàng hôn mới lập trại nghỉ ngơi.
Linh Trí nói không sai chút nào, sau trận Dã Mã Vũ, bầu trời trở nên quang đãng, không khí không lạnh không nóng, những ngọn gió ở thảo nguyên thổi đến làm người ta thần khí sảng khoái.
Thải Nhu bưng thức ăn đem đến cạnh ta.
Thuận tay, ta nhận lấy thực phẩm từ tay nàng, vừa ăn vừa nhìn ra phía sau Thải Nhu, thắc mắc: “Cái thằng mắc dịch kia đâu rồi?”
Thải Nhu bật cười: “Đại Hắc được chọn làm tên hỗn đản được hoan nghênh nhất trong quân doanh, chỉ lo chén căng bụng thức ăn người ta đem đến và để cho họ vuốt ve, ngay cả em cũng không kêu nó về được.”
Ta lắc đầu, thở dài: “Cẩu vẫn hoàn cẩu, ta vốn nghĩ rằng lão Đại Hắc của chúng ta phải có một chút tính cách chứ.”
Thải Nhu bật cười nghiêng ngã, hết sức quyến rũ.
Không cầm lòng nỗi, ta nghiêng đầu cắn vào tai nàng: “Ta muốn ôm nàng ngủ.”
Mắt Thải Nhu ánh lên nét huyền hoặc, nàng cúi đầu, nói nhỏ: “Em cũng muốn như vậy.”
Ta cố tỏ ra ngạc nhiên: “Nàng đã hẹn với Linh Trí lão quỷ đi coi sao rồi mà?” Thải Nhu nắm tay lại, đấmẩt một cái, kéo dài giọng: “Ngài dám ghẹo em à.” Chợt nàng “Ah” lên một tiếng “Suýt nữa thì quên, ngài xem nè!” Rồi đưa tay trái lên, một cái vòng đen tuyền, không lẫn bất cứ một sắc nào khác, khiến người ta có cảm giác đây là vật trân quý.
Ta ngơ ngác nói: “Không lẽ nó được làm từ Trân Ô Thạch?” Tim đập mạnh, lòng thầm hồi hộp, nếu Ma Nữ Nhận chém nó không gãy, thì Trân Ô Đao chính là vật khắc chế Ma Nữ Nhận, nhưng ta không nỡ bảo Thải Nhu tháo cái vòng ra để ta thử nghiệm.
Thải Nhu cười chúm chím: “Chính là Trân Ô Hoàn, khi em gặp Nữ Công Tước, nàng tặng em cái vòng này, ngài biết không? Trừ hai chiếc của em và của Ny Nhã, trong thiên hạ không có chiếc thứ ba!”
Ta cười khổ, đoạn tình cảm này xem ra muốn cắt cũng không cắt nổi, nhưng Ny Nhã thực sự là mỹ nhân phi thường, sự cao ngạo kiều diễm làm động lòng người của nàng tạo ra một ấp lực tự nhiên, khác biệt nhiều so với Thải Nhu. Hoa Nhân tuy cũng là một mỹ nữ khó gặp, nhưng so với hai nàng này thì thua khá nhiều, đây có phải là lý do ta nhẫn tâm để nàng lại Ma Nữ Quốc, lòng ta như có hòn đá đè nặng, khiến hô hấp cũng cảm thấy khó khăn.
Tiếng Linh Trí vang lên “Thải Nhu, đã đến giờ xem sao rồi.”
Thải Nhu cao hứng nhảy lên: “Đại Kiếm Sư, chúng ta cùng đi chứ?”
Ta làm như không có chuyện gì, để Thải Nhu không nhìn thấy tâm sự, mỉm cười: “Tối mai, ta sẽ xem sao cùng nàng.”
Thải Nhu nhăn nhăn trán, dáng vẻ thật khả ái, ghé sát má ta, nói thầm: “Sau nữa đêm, em sẽ là của ngài.” Rồi chuyển mình như làn gió đi mất. Không có mùi hương quen thuộc của thân thể nàng bên cạnh, ta có cảm giác như một chút gì đó mất mát. Thuận bước, ta tiến đến soái doanh của Ny Nhã.
Dọc đường đi, đội Thải Dương chiến sĩ thấy ta lập tức kính chào, ánh mắt họ thể hiện rõ sự tôn sùng, ngưỡng mộ lẫn cảm kích, ta hiểu rõ nếu yêu cầu họ vì ta mà chết, chắc chắn họ sẽ không do dự chút nào. Với việc ta là người duy nhất có thể chiến thắng đám Hắc Xoa nhân ứng với với niềm tin sâu thẳm vào lời tiên tri về Thánh Kiếm Kỵ Sỹ, khiến họ càng tin ta chính là Thánh Kiếm Kỵ Sĩ trong truyền thuyết.
Trước lều trại của Ny Nhã, viên thủ vệ xuýt quỳ xuống bẩm báo với ta là nữ công tước đem theo bốn nữ thân binh thị sát bên ngoài doanh trại.
Ta gọi Phi Tuyết, giục ngựa chạy theo hướng mà vệ binh đã chỉ.
Không khí Tịnh Thổ về đêm như trong suốt, bầu trời cao khảm đầy sao lớn sao nhỏ, không biết hai ngôi sao sáng Phiêu Hương và Thiên Mộng nằm ở đâu. Trong số các dân tộc mà ta đã gặp, người Tịnh Thổ là một dân tộc lãng mạn nhất, có khí chất nhất và cũng mỹ lệ nhất, nhưng lại hoàn toàn không thích hợp với cuộc chiến tranh tàn khốc này.
Thiên Mộng Hà đang chảy nhẹ nhàng ở bên trái, không biết từ thượng nguồn hình dạng của nó như thế nào.
Ta nhớ lại Đại Nguyên Thủ, trong lòng như bị thêm một nhát dao, tên ma quân có lẽ đã đến Tịnh Thổ trước ta, hắn không biết đã tạo thương hại gì trên miền đất mỹ lệ này chưa? Nếu hắn lấy được thanh Ô Trân Đao, liệu ta có đủ năng lực giết hắn hay không?
Tuy kiếm thuật của ta tiến bộ không ngừng, nhưng sức lực thì có hạn, trong khi Đại Nguyên Thủ chỉ là một nửa người, tiềm lực vô cùng vô tận, nếu giao chiến thì không biết ai sẽ chết dưới tay ai.
Văng vẳng tiếng ngựa hí ở một đồi nhỏ ở phía trước.
Ta vỗ nhẹ Phi Tuyết, nó hiểu ý lập tức tăng tốc bôn hành, trong chớp mắt đã đến đỉnh đồi.
Ny Nhã đang ngưng thần nhìn về phía thảo nguyên xa xôi dưới trời sao đêm, quay lưng về phía ta. Thấy ta, bốn nữ thân binh giật mình cúi người thi lễ, không dám ngẫng đầu lên. Trong tâm khảm họ, ta và thiên thần thật không có mấy khác biệt.
Ta tuy không thích sự tôn sùng này, nhưng phải biết lợi dụng nó.
Ny Nhã bình tĩnh nói: “Các ngươi quay về doanh trại trước đi!”
Bốn nữ thân binh theo lời đi mất.
Ta xuống ngựa, đến sau lưng Ny Nhã.
Kinh nghiệm với nữ nhân thì ta có khá nhiều, chỉ trong vòng một năm ngắn ngủi, các nữ nhân trước sau ta đã gặp là Tây Kỳ, Hoa Nhân, Quận Chúa, Ma Nữ và Thải Nhu.
Chuyện tình yêu như một cuốn sách đọc hoài không hết, nhưng có một điều có thể khẳng định, khi nó đến, thì một người lòng dạ sắt đá cũng không thể từ chối, huống chi trái tim của ta đối với tình yêu lại rất mềm yếu, dễ bị xúc động.
Ny Nhã biểu hiện bề ngoài tuy rất kiên cường, nhưng đó chỉ là cái vỏ bọc mà thôi. Sau khi Lạp Tát đại công mất đi, đó là một đã kích rất lớn đối với nàng. Nếu ta lại gây tổn thương cho nàng, liệu nàng có thể chịu nổi hay không? Trong thời đại chiến tranh không có ngày mai như vậy, nếu ta không kịp nắm chắc thời cơ, khiến Ny Nhã và ta cùng chung nhiều điều hạnh phúc, thì thật sự là việc ngu xuẩn nhất trần đời.
Ta là một người rất may mắn, trong cuộc hành trình gian khổ, đơn độc này, trước có Thải Nhu xua tan nỗi tịch mịch, khi đến Tịnh Thổ, lại gặp nàng công tước mỹ lệ cao quý này. Trời xanh đối với ta không bạc, cho dù sau này ta có phải nếm tận nỗi khổ đau của tình ái đi nữa, thì ta cũng cam lòng. Nhưng thôi, ai mà lo đến chuyện xa xôi như vậy chứ.
Nghĩ tới điều này, một bầu máu nóng sôi lên, những tâm ý mà ta đã tự ràng buộc cho bản thân, giờ thì cũng đã được giải tỏa xong.
Làn u hương từ thân thể Ny Nhã thoang thoảng lan tỏa đến bên ta, trong một đêm đẹp đẽ như thế này, trên một vùng đất mỹ lệ như thế này, và trong một góc yên tĩnh như ở đây.
Ta tuy không uống giọt rượu nào, mà đã có cảm giác ngất ngây.
Làn gió đêm nhẹ nhàng lướt qua, mái tóc vàng rực rỡ của Ny Nhã tung bay, làm ta nhớ lại cảm giác kinh ngạc của mình trước vẻ kiều diễm khi làn tóc vàng xỏa xuống của nàng, khi nàng gỡ khôi giáp trong lần đầu gặp mặt.
Thời gian như quay lại quá khứ, ta nhớ lại lúc Tây Kỳ giương cung bắn mình trên thảo nguyên , rồi đêm ở Vọng Nguyệt Thành cùng Hoa Nhân mặt kề mặt, cảnh trong lều của đám buôn mỹ nữ, rồi cảnh Ma Nữ đang nằm co ro trong tấm thảm, cảnh Quận Chúa đang chễm chệ trên ngai, nhớ lại cảnh Thải Nhu đang quỳ trước ta ở Thiểm Linh Cốc. Từng cảnh, từng cảnh một trôi qua trước mắt làm ta vừa đau lòng vừa cảm động.
Mái tóc Ny Nhã phất lên mặt, làm ta sực tỉnh.
Ny Nhã cuối cùng đã không chịu đựng nổi, giọng lạnh băng: “Ngài đến đây làm gì? Định khuyên ta trở về Hỏa Thành?”
Sau khi suy nghĩ thông suốt, cảm thấy không còn điều gì cấm kỵ nữa, ta cười cười: “Bé ngốc ơi! Ta sao nỡ làm vậy chứ?” Thân thể Ny Nhã run lên, quay người lại, ánh mắt hiện lên nét nghi hoặc, lắp bắp: “Ngươi..., ngươi...” Ta bất chợt phát hiện ra nét hấp dẫn tột độ của nàng đối với ta chính là thái độ lạnh lùng ngạo mạn đó, làm ta có cảm giác nàng như một cái gì đó vô cùng trân quý.
Ta nhìn chăm chăm vào mắt nàng, nhẹ giọng: “Đừng nói gì nữa, hãy để ta được ngắm nhìn nàng.”
Dưới ánh sao, thân thể ngà ngọc cùng gương mặt hoa của nàng như tỏa sáng, mắt ánh lên những tia rực rỡ làm mờ đi ánh sao. Sau đó, như ngượi ngiụ, nàng cúi đầu xuống, dáng điệu càng làm ta ngất ngây như uống rượu say.
Không gian đột nhiên trở nên mênh mông, bao la. Hai chúng ta cũng tựa như cao lên, lớn lên, bay lên, bề bồng, tan hòa cùng không trung. Một cảm giác vi diệu là bản thân cũng lớn lao như đất trời.
Mái tóc nàng tung bay theo chiều gió, phất lên cả mặt ta, hương thơm riêng biệt của nàng tràn ngập khoang mũi, đi vào tâm khảm, làm ta có cảm giác như tan theo mùi hương đó.
Ta thật sự là người quá đa tình hay sao?
Lần đầu tiên nhìn thấy Tây Kỳ, thấy Ma Nữ, thấy Thải Nhu ta đều say mê họ cả.
Trong tình yêu không có chuyện đúng hay sai, chỉ có quá nhiều hay quá ít, chỉ có đau khổ hay là hạnh phúc mà thôi.
Nàng ngẫng đầu lên len lén nhìn ta.
Đó là ánh mắt khiến người ta mê say, ánh mắt nàng tựa như hải triều vỗ bờ, hay như giòng chảy bất tận mang theo tình ý với đại địa của sông Thiên Mộng.
Ta đưa tay phải ra, nắm nhẹ cái cằm nhỏ bé của nàng, nâng gương mặt hồng rực như lửa đốt của nàng lên.
Bốn mắt nhìn nhau, không thể nào rời mắt ra khỏi nhau được nữa rồi. Có rất nhiều cô gái khả ái ngã lòng vì ta, Lan Đặc ta thật không sống uổng kiếp này. Tự mình cũng cảm thấy không xứng đáng với họ, nhất là về mặt tình yêu, những cô gái đó đều dũng cảm và khẳng khái hơn ta nhiều. Họ sẵn sàng hy sinh vì ta, còn ta lại không ngừng tìm cách từ chối họ, tìm mọi lý do để áp chế tình cảm của mình.
Nếu như ta đầu hàng Thải Nhu sớm một chút, thì nàng đã không phải khóc hết mấy đêm trường. Nếu như ta không cố ý ly khai Ny Nhã, thì nàng đã không phải cố tỏ ra cương quyết cứng rắn như hôm qua.
Làm gì để khổ cho nhau vậy.
Bắt đầu từ giờ khắc này, ta sẽ không sợ ái tình nữa, rất có thể ở đây ta đã tìm được ý nghĩa chân chính duy nhất của sự sống, con người phải tồn tại vì lý do này.
Trong lòng ta nãy lên sự chán ghét đối với chiến tranh, chết chóc và đau khổ. Ta nghiêng về phía trước, tham lam hôn lên đôi môi hồng nhuận của nàng.
Tiếng vó ngựa vang lên.
Chúng ta rời nhau ra.
Một Thái Dương chiến sĩ thúc ngựa chạy lại, thi lễ xong rồi báo: “Phiêu Hương Thành có tin gửi đến!”
Bên trong một lều trại cực kỳ rộng lớn, tất cả nhân vật lãnh đạo lần lượt kéo đến, ánh mắt của họ đều tập trung vào một chiến sĩ trẻ.
Hắn tên là Điền Tông, được Phiêu Hương Thành phái đưa thư đến.
Người tiến vào sau cùng chính là Linh Trí, Điền Tông lập tức quỳ xuống thi lễ, tôn kính hơn nhiều khi hắn gặp Ny Nhã, cho ta biết Linh Trí quả thật một trong tám tế ti quyền lực nhất.
Nét mặt của mọi người đều hiện lên nét lo âu, vì thần sắc của Điền Tông không có chút gì vui vẻ.
Sau khi Ny Nhã đợi Linh Trí chúc phúc cho Điền Tông xong, rồi hỏi: “Điền Tông, ngươi có đem đến tin tức tốt lành nào đây.”
Điền Tông cung kính nói: “Kính thưa Nữ Công Tước, Điền Tông sợ làm ngài thất vọng, vì Phiêu Hương Thành đang chịu sự vây công của đám Hắc Xoa ác quỷ, tình hình rất nguy cấp!”
Mọi người đều biến sắc, không ngờ vấn đề lại nghiêm trọng như vậy, nếu như Phiêu Hương Thành thất thủ, khoan nói đến tổn thất về nhân mạng, tài sản, chúng ta sẽ bị cắt đứt con đường đến Thiên Miếu, và cũng mất luôn cơ hội bổ sung nhân mã lẫn vũ khí. Nếu có thể thoái lui được, thì thật là điều vạn hạnh, chứ đừng hòng bàn đến chuyện giao phong?
Ny Nhã là người đầu tiên trấn tĩnh lại: “Tướng lĩnh của địch là ai, có bao nhiêu binh mã?”
Điền Tông đáp: “ Chính là “Quang Đầu Quỷ” Tả Lệnh Quyền cùng với “Thực Nhân Quỷ” Công Lãnh Minh trong Hắc Xoa Thất Ác Thần, hai tên này thống lĩnh mười vạn người, không tính đến lực lượng phụ trách hậu cần.
Cho đến thời khắc này, Điền Tông nói qua địch tình và liếc ta mấy lần, hiển nhiên hắn chưa biết ta là Thánh Kiếm Kỵ Sỹ, “giáng thế” cứu chúng sinh. Nếu chuyện này nói lên rằng, tin tức chỉ lan truyền rất hạn chế trong khu vực Hỏa Thành mà thôi. Xem ra ta phải tận lực tuyên truyền thêm nữa, nếu ta có cách hóa giải nguy cơ cho Phiêu Hương Thành thì kết quả thu được sẽ rất lớn. Trạch Sanh tướng quân giật mình: “Phiêu Hương Thành toàn bộ nam nhân không đến tám vạn người, làm sao chống trả nỗi đại quân của hai tên kia?” Hầu Ngọc bình tĩnh hơn Trạch Sanh nhiều: “Phiêu Hương Thành địa thế giáp núi dựa sông rất hiểm trở, lại thêm Hồng Thạch đại công đích thân chỉ huy, dễ thủ khó công. Bọn Hắc Xoa nhân trước sau đã công thành hơn mười lần đều không thu được kết quả gì, sao lần này lại chiếm ưu thế?”
Điền Tông thở dài nói: “Lần này binh lực chúng mạnh gấp ba lần, thêm vào đó lại chuẩn bị kỹ càng, chúng xây dựng xong một tòa thành ở hậu cần, để chuẩn bị cho cuộc chiến lâu dài, không như những lần trước, không đủ lương thực phải rút quân về.”
Linh Trí thần sắc vẫn tự nhiên, hình như trong lòng có toan tính sẵn, kỳ thật ông ta tin tưởng vào ta. Trong lòng mỗi người ở đây, họ vẫn rất tin vào điều tiên tri về Thánh Kiếm Kỵ Sĩ, nhưng Linh Trí là người tế ti có đức hạnh nên ông ta tin tưởng vào điều tiên tri nhất, còn các người khác không phải không tin, nhưng mà tin ở mức độ khác nhau. Như Hầu Ngọc cùng Trạch Sanh, trong tình cảnh nguy cơ trước mắt, thì họ quên ngay rằng ta - Thánh Kiếm Kỵ Sĩ đang ở đây.
Nếu ta muốn vãn hồi sự hòa bình ở Tịnh Thổ, thì phải tìm cách làm cho họ hoàn toàn tin tưởng vào ta, đó là phương pháp duy nhất.
Ny Nhã đảo mắt nhìn ta, trong mắt ánh lên lửa tình chỉ mình ta hiểu, âm thanh thì làm như lạnh lùng: “Đại Kiếm Sư, chúng ta phải làm gì?”
Điền Tông ngẫn người quay mặt nhìn ta, lộ ý không hiểu tại sao Ny Nhã lại hạ cố hỏi ý kiến ta!
Ta nhìn Ny Nhã cười nhẹ, rồi lướt mắt qua toàn bộ mọi người, sau cùng lại dừng trên gương mặt đang tràn đầy ánh sáng tình ái của Ny Nhã. Sau một hồi lâu mới rời mắt khỏi gương mặt nàng nói: “Hãy để chúng ta tiễn hai tên đó về trời, làm bạn với Tịch Chúc Đồng cho hắn bớt phần tịch mịch” Mọi người đều ngơ ngác, phải biết rằng, với một vạn binh lực của mình, để giải cứu được Phiêu Hương Thành đã là chuyện nằm mơ. Lại nghe ta đòi giết luôn chủ tướng, thì nghĩ cũng không dám nghĩ, nếu họ không tận mắt thấy ta giết Tịch Chúc Đồng thì đã mở miệng chưởi ta là thằng nói khoác rồi” Điền Tông càng sững sờ, không biết bên Ny Nhã tại sao lại để cho ta tự do nói khoác như vậy. Sau một hồi lâu, mới mở miệng: “Vị này là? vị này là?” Ta dám cá rằng hắn đã quên mất Ny Nhã vừa mới giới thiệu ta xong. Linh Trí đến cạnh ta, hướng qua Điền Tông, nói: “Chiến sĩ trẻ, ta không ngạc nhiên khi ngươi kinh ngạc như vậy, vì ngươi không biết thân phận chân chính của Đại Kiếm Sư Lan Đặc, ngài là Thánh Kiếm Kỵ Sĩ được trời phái xuống giúp chúng ta, Tịch Chúc Đồng là vong hồn dưới kiếm của ngài.”
Thần sắc Điền Tông còn bán tín bán nghi, thần sắc cũng không chuyển biến gì lắm, hiển nhiên hắn chưa thể chấp nhận một sự thật như vậy. Hầu Ngọc nói: “Với binh lực hiện tại của chúng ta, nếu khiêu khích quân đội của đối phương thì như trứng chọi đá, tự tìm cái chết mà thôi. Đối phương chắc đã nghe tin Tịch Chúc Đồng táng mạng rồi, sẽ không để cho chúng ta có cơ hội nào nữa đâu.”
Mọi người đều gật đầu tán thành, kể cả người tin tưởng vào sức mạnh của ta nhất là Linh Trí, truyền thuyết vẫn chỉ là truyền thuyết, khi liên quan đến sự kiện thực tế trước mắt, không thể không lấy góc độ hiện thực để suy xét. Và ta cũng chỉ suy xét từ góc độ đó mà thôi.
Tại vì ta dù sao đi nữa cũng là người, chứ không phải là thần, có thể ta không phải là Thánh Kiếm Kỵ Sĩ, chẳng qua tình cờ ta có bảo mã, lại thêm có bảo nhận phi thường, lại tình cờ đi từ Liên Vân Phong đến đây.
Ánh mặt mọi người đều dồn trên người ta, nếu ta đoán không sai, họ đang cho rằng không biết ta là một thằng điên hay là một Thánh Kiếm Kỵ Sĩ thật sự, đương nhiên, trừ Ny Nhã và Linh Trí ra.
Ta cười nhẹ, hết sức tự tin: “Ai nói rằng chúng ta trực tiếp giao phong với hai đạo quân tinh nhuệ của bọn Hắc Xoa Nhân?” Quay sang Điền Tông, ta hỏi tiếp: “Bọn chúng dùng vật liệu gì để xây cái thành tạm đó?”
Trên mặt Điền Tông hiện lên nét phẫn uất: “Bọn Hắc Xoa Nhân này là bọn phá hoại thiên nhiên, chúng chặt hàng loạt cây Phiêu Hương trân quý của chúng ta, xẻ thành từng phiến để xây thành tạm, làm cho mọi người phẫn nộ vô cùng.”
Như vậy cái thành này được xây bằng gỗ, dĩ nhiên là dễ xây hơn so với xây bằng đá cả trăm lần.
Điền Tông thở dài nói tiếp: “Nếu Lan Đặc công tử định dùng hỏa công, thì uổng công suy nghĩ, vì Phiêu Hương Thành quanh năm ẩm thấp, loại gỗ đó phải phơi khô mới đốt được, hỏa công thật sự không sử dụng được.” Ta chửi thầm trong lòng, nếu có loại dầu đen, loại sản vật có rất nhiều ở Ma Nữ quốc thì tốt quá. Lúc còn ở Ma Nữ quốc ta đã xem qua Trí Tuệ Điển và thấy trong đó có nhắc đến loại dầu đen nằm sâu dưới lòng đất này, thỉnh thoảng cũng phun trào lên trên mặt đất, nó phân bố khắc nơi trên đại địa chúng ta đang sống, biết đâu ở Tịnh Thổ này cũng có cái bảo bối đó không chừng. Thuận miệng ta hỏi: “Ở gần Phiêu Hương Thành, có ai thấy qua một dung dịch màu đen từ trong lòng đất phun lên, mùi hăng hắc khó chịu.” Ta hỏi mấy câu này không phải chờ câu trả lời, thật sự vô kế khả thi, ta nói đại để tránh cho bọn họ mất lòng tin vào ta thôi.
Chúng nhân đều kinh ngạc.
Điền Tông ngạc nhiên nói: “Đại Kiếm Sư làm sao biết có một nơi như vậy ở đây?” Đây là lần đầu tiên hắn gọi ta một cách tôn trọng – Đại Kiếm Sư. Ta còn kinh ngạc hơn họ nhiều, không lẽ đây chính là điều sẽ giúp ta thắng trong trận chiến này?
Linh Trí thấy ta không nói năng gì, mới bổ sung: “Địa phương đó được gọi là Hắc Huyết Cốc, nguyên là một sơn cốc rất đẹp, một năm trước khi bọn Hắc Xoa Nhân vượt biển đến đây, tự nhiên trong lòng đất phun ra thứ hắc huyết đó, giết chết tất cả động thực vật trong cốc. Lúc đó, có người nói rằng đó là điềm không lành, không ngờ sau đó bọn Hắc Xoa Nhân lại đến, cả hai đều là màu đen thui đáng sợ.
Ta hỏi: “Hắc Huyết Cốc ở đâu?”
Điền Tông trả lời: “Cách Phiêu Hương Thành về hướng tây mười ba dặm, hiện tại đã nằm trong phạm vi thế lực của bọn Hắc Xoa Nhân, cách tòa mộc bảo của bọn Hắc Xoa Nhân chừng tám chín dặm.
Ta cố kềm chế hưng phấn, trầm giọng: “Các người có biết thứ hắc huyết đó có tác dụng gì không?”
Điền Tông lắc đầu trả lời: “Có người nói rằng, một con Ma Long bị thương ở dưới đất, phun máu lên trên mặt đất, loại đó thật đáng sợ. Sau khi Hồng Thạch Đại Công Tước đích thân đi thị sát, lập tức ra lệnh cấm, không cho phép bất cứ ai tiếp cận trong vòng năm dặm quanh khu vực này, để tránh xúc nộ ác thần.”
Ta ngữa mặt lên trời cười lớn, thống khoái vô vùng.
Mọi người đều lộ ra vẻ không hiểu gì cả.
Ny Nhã làm bộ giận dỗi: “Đại Kiếm Sư, đừng có úp úp mở mở nữa!” Nàng ta cuối cùng đã không kềm nến nỗi thương yêu trong lòng, ngữ khí đã bày tỏ sự chuyển biến trong mối quan hệ giữa nàng và ta, làm mọi người đều chú ý. Linh Trí mĩm cười, ánh mắt chuyển qua lại trên hai chúng ta.
Ta hơi ngượng ngịu, ho lên mấy tiếng, nghiêm mặt nói: “Loại hắc huyết này có phải là máu của con Ma Long hay không thì ta không rõ, nhưng ta biết chắc rằng loại hắc huyết này là nhiên liệu đáng sợ nhất trên đại địa, chỉ với một mồi lửa, không ai có thể dập tắt được.”
Ánh mắt mọi người sáng hẵn lên, cuối cùng đã hiểu rõ ý ta.
Điền Tông nghĩ một hồi, vẻ hớn hở tiêu tan, thở một hơi dài: “Bên ngoài tòa thành gỗ này, bọn Hắc Xoa Nhân bố trí quân lính dày đặc, cho dù chúng ta có hắc huyết trong tay, cũng không có cách đem đến đó để châm lửa.” Mọi người kể cả Linh Trí và Ny Nhã đều như hụt hẫng, đạo lý quá rõ ràng, nếu mà đem hắc huyết đến được tận Mộc Bảo, thì chiếm luôn đi cần gì hắc huyết. Ta lại cười nhẹ: “Ta có bao giờ nói là chúng ta trực diện công thành đâu?” Ny Nhã chău mày lại, liếc xéo ta: “Như vậy thứ hắc huyết đó, có cũng như không!”
Ta cười nhạt: “Thôi, khuya rồi, chúng ta nghỉ sớm đi. Sáng mai lúc mặt trời mọc, ta cùng Nữ Công Tước và Điền Tông dẫn một ngàn người đi trước, còn lại đi theo sau, sau khi chúng ta tụ hội lại, sẽ nghiên cứu kỹ các chi tiết.”
Ny Nhã nói: “Một ngàn người dùng để làm gì?’
Ta cười: “Đưa lễ vật thì cần gì nhiều người?”
Tất cả đều ngạc nhiên: “Đưa lễ vật?”
Linh Trí hiểu ta sẽ không nói rõ huyền cơ bên trong, nên nói: “Các con ơi, tối rồi, nghỉ đi thôi.”
Mọi người không còn cách nào khác, tản về, chỉ còn ta và Ny Nhã ở trong lều. Ny Nhã hai má đỏ hồng, trái hẳn với vẻ băng lãnh thường ngày của nàng, thật khiến người ta nảy sinh nhiều ham muốn.
Ta mỉm cười: “Trân Ô Hoàn thì chỉ có hai cái trên thế gian này, nhưng Trân Ô Đao có bao nhiêu cây?”
Mặt của Ny Nhã đỏ đến tận mang tai, nàng trừng mắt nhìn ta, cố tỏ ra lãnh đạm: “Chàng đã có một cây thánh kiếm, còn tham lam nghĩ đến Trân Ô Đao?” Ta rất nóng lòng biết kết quả, không còn lòng dạ chọc ghẹo nàng, nghiêm mặt nói: “ầ sợ rằng có một thanh đã rơi vào tay một người còn đáng sợ hơn con Ma Long đó, lúc đó đến ta cũng không chế phục nổi, tai họa này còn nghiêm trọng hơn đám Hắc Xoa Quỷ nhiều.”
Mắt Ny Nhã ánh lên nét nghiêm trọng: “Trân Ô Đao đúc thành chỉ có ba cây, một cây thất lạc hơn trăm năm rồi, còn lại hai cây, thì một rơi vào tay bọn Hắc Xoa Nhân, một để tại Thiên Miếu.
Ta im lặng, nếu ta lấy lại thanh đao từ tay bọn Hắc Xoa Nhân trước, thì Đại Nguyên Thủ sẽ không có cơ hội chiếm giữ.
Ny Nhã nhu mì: “Thôi khuya rồi, mai chúng ta phải khởi hành sớm nữa!”
Ta kinh ngạc, đúng ra ta phải về lều của Thải Nhu và Đại Hắc, nhưng thấy thần sắc nhu mì, thần thái yêu kiều chứng tỏ nàng muốn cùng ta ngủ lại đêm nay, không biết ta phải đối phó như thế nào nữa.
Chỉ hận ta không biết phong tục của Tịnh Thổ nhân, nếu ở lại như vậy không biết có làm mất đi sự tôn quý của nữ công tước hay không. Trong thời đại chiến tranh liên miên, người Đế Quốc quan hệ nam nữ rất tùy tiện, không phải vì thời thế loạn lạc mà lòng người cũng loạn lạc, chủ yếu là nam bị chết nhiều, nên một người nam đương nhiên có nhiều người nữ, thậm chí những người phụ nữ độc thân không ngần ngại kết hợp với nam nhân mới quen biết, để duy trì nòi giống, bảo trì quốc lực, không biết Tịnh Thổ nhân có giống như vậy hay không? Hay họ là những người trời sanh lãng mạn đa tình. Ta thấy phần sau có vẻ đúng hơn. Lão bằng hữu Niên Gia của ta là một ví dụ. Nhưng ta đã đáp ứng với Thải Nhu đêm nay là của nàng.
Từ lúc nàng bị thương đến giờ, chúng ta chưa có dịp gần gũi với nhau. Ny Nhã quay lưng đi, không cho ta nhìn thấy thần sắc của nàng, lưng vẫn thẳng, âm thanh chuyển sang lạnh lùng: “Ngài đi đi.”
Ai dà!
Ta biết rằng thái độ do dự bất quyết của ta đã làm tổn thương lòng tự tôn của nàng, không thể trách nàng được.
Nàng đã bỏ hết lòng kiêu ngạo để đến với ta, đã làm nàng thấy khuất nhục, nên nàng cực kỳ nhạy cảm về vấn đề này.
“Ny Nhã, nàng hãy tự tha thứ mình. Trước tình yêu ai cũng là người yếu đuối.”
Ta cầm tay nàng, nàng giãy ra nhưng không thoát được, huống gì căn bản là nàng cũng không muốn thoát.
Ta kéo nàng ra ngoài lều, rồi buông tay ra.
“Nàng có nể mặt đến thăm lều nhỏ của ta không?” Ta nói.
Ny Nhã mặt hồng lên, cúi đầu, chân bước theo để trả lời câu hỏi của ta. Ta đang nghĩ tới cách gởi lễ vật đến cho đám Hắc Xoa Nhân, vừa đi vừa nói: “Trong quân có ai biết nói tiếng Hắc Xoa không?” Ta nhớ trước khi chết, Tịch Chúc Đồng hướng về ta nói mấy tiếng ngôn ngữ mẹ đẻ của hắn.
Nghe nói đến chuyện chính sự, vẻ kiều diễm của Ny Nhã giảm bớt: “Chàng yên tâm, Hắc Xoa Nhân sau khi đến Tịnh Thổ, đều cố gắng học ngôn ngữ đẹp đẽ của Tịnh Thổ Ngữ, bọn chúng cũng chẵng có tâm địa tốt lành gì.” Ta tức khắc vui vẻ: “Vậy thì quá tốt, đại lễ này chắc chắn bọn chúng không từ chối.”
Ny Nhã nhí nhảnh: “Chàng lại nghĩ ra cái chủ ý quỷ quái gì đây?”
Ta rất thích nhìn cái thần sắc nữa giận nữa hờn khả ái mày, cố ý ghẹo: “Tới nơi rồi, đây là hàn xá của ta, A! người đâu hết rồi?” Lều này khác với các lều tuyệt đẹp của người Tịnh Thổ, do ta đem cái lều nhỏ trắng này đến từ Ma Nữ Quốc, bên trong tối âm âm.
“Tiểu Thải Nhu của ta đi đâu rồi, ngay cả Đại Hắc và Phi Tuyết cũng không thấy nữa.”
Đại Hắc thở hào hễn từ sau chạy đến.
Ta giang hai tay cho Đại Hắc liếm vào mặt, cuời nói: “Đại Hắc, lại đây cho ta giới thiệu với ngươi một nữ chủ nhân mới.”
Ny Nhã đưa bàn tay trắng nuốt, xoa đầu Đại Hắc, mặt đỏ bừng, làm bộ giận dỗi: “Không ngờ ngươi cũng biết ăn hiếp người thế.”
Ta cười ha hả, buông Đại Hắc ra, nó nhảy xuống đất, chạy về phía đông doanh trại, chạy được vài bước quay đầu lại sủa ông ổng.
Tên này lại hiểu được mệnh lệnh dẫn đường, đúng là con chó thông minh nhất mà ta gặp, đội khuyển quân của Đế Quốc chỉ có thể đãm trách những nhiệm vụ khác nhau, nhưng phải được Hắc Khôi chiến sĩ huấn luyện nghiêm khắc. Trong khi đó, Đại Hắc là con chó có năng lực tự học.
Ny Nhã lấy làm kỳ lạ: “Nó muốn chúng ta đi theo nó kìa!”
Ta trầm giọng: “Để xem nó làm trò quỷ gì.” Sải bước theo sau, Ny Nhã đương nhiên theo bên cạnh.
Dọc đường doanh trại mọc như rừng, tối đen và yên tĩnh, trong đêm khuya thanh vắng, lại vừa trải qua cuộc chiến và hành trình mệt mỏi, trừ những người canh gác bên ngoài, còn lại mọi người đều đã ngũ say, mơ về quê hương Tịnh Thổ yêu dấu của họ.
Dưới những ánh đuốc thưa thớt, vang lên tiếng ngáy đều đặn, mùi u hương của Ny Nhã phảng phất, tự nhiên ta có cảm giác hết sức yên bình.
Dưới bầu trời sao đêm tuyệt đẹp, Thải Nhu hai tay ôm gối, ngồi trên tảng đá lớn, bằng phẳng, ngước mặt lên nhìn trời sao, hòan tòan chìm đắm vào một thế giới khác, trong đó nàng có thể tìm thấy một giấc mộng đã vỡ tan, một giấc mộng về một miền đất an lạc và hòa bình.
Ta biết suốt đời mình sẽ không quên được cảnh cảm động này.
Ny Nhã dịu dàng quàng tay ta, sợ làm kinh động Thải Nhu, khẻ nói: “Chúng ta cùng hòa chung với nàng ta trong đất trời này.”
Lòng chợt ấm lại, ta không ngờ ý nghĩ của Ny Nhã và ta là cùng hòa điệu đến mức như vậy.
“Uông uông uông”
Đại Hắc chạy đến cạnh Thải Nhu, sủa lên ba tiếng không nễ nang gì cả Không khí tĩnh mịch thần thánh này lập tức bị vỡ tan.
Cả ba người bọn ta đều giật mịnh
Thải Nhu bật người lên như viên đạn rời khỏi cung, quay nguời lại, thấy chúng ta, một nét cười mê hồn thoáng qua gương mặt thuần mỹ của nàng, bước đến chỗ bọn ta.
Ta cùng Ny Nhã dừng lại, Thải Nhu chạy thẳng đến trước mặt, nét vui mừng chân thật hiện rõ trên gương mặt nàng, nhìn ta, rồi nhìn qua Ny Nhã, rồi chạy ào vào giữa hai chúng ta như một con chim nhỏ giang cánh, dùng hết sức ôm xiết ta và Ny Nhã, Chúng ta như là ba cánh hoa cùng hợp lại.
Một giòng nhiệt lệ bất chợt trào ra ngập tràn mắt ta, chảy dài trên mặt. Chính giờ phút này, ta cảm thấy đã có nguyên vùng đất Tịnh Thổ trong tay.
Cho dù ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng cho họ, điều đó cũng hoàn toàn xứng đáng.