- Trang chủ
- Đại Kiếm Sư
- Chương 23: Sơ lâm quý cảnh
.navbar-toggle span { background: #fff; margin: 3px auto; }
Tác giả: Huỳnh Dị
Đội mã đà dài dằng dặc, đi qua các hẻm núi một cách chậm chạp, giống như một con rắn đang mềm mài trườn mình. Niên Gia từng nói, một mặt của dẫy Bộ Hoả Sơn tiếp nối sa mạc, hoàn toàn chỉ có đá và cát trơ trọi, nhưng mặt bên kia lại mọc toàn thảo mộc đặc biệt tú lệ, có cả những loại thực vật mà tìm toàn bộ vùng Tịnh Thổ cũng không tìm ra, đây có thể là trời xanh bù đằp cho miền đất này.
Ta vòng tay ôm lấy Thải Nhu, kề sát bên tai thì thầm: “Hy vọng là chúng ta có thể vượt qua ngọn núi này trước lúc hoàng hôn, đến được Tịnh Thổ.”
Thái Nhu “A” một tiếng phản ứng, phóng mắt nhìn khắp bốn phía chỉ thấy núi đá nham thạch lô nhô tuyền một sắc vàng xẫm, khẽ nói: “Không tưởng được trên thế gian lại có một ngọn núi quái dị như vậy, lại nằm ở tận biên giới Tịnh Thổ.”
Ta cười lớn tiếng nói: “Tiểu bảo chủ khả ái của ta, nó không phải là nằm trên biên giới Tịnh Thổ, mà nó chính là biên giới của Tịnh Thổ, nếu không phảỉ là do ngọn núi này hy sinh một nửa vẻ đẹp của mình. Thì đến một nửa Tịnh Thổ nàng cũng sẽ không có đâu.”
Thải Nhu phì cười trước lời châm chọc đó, “Những lời Đại Kiếm Sư nói còn kì quái hơn cả Niên Gia tiên sinh nói tiếng Đế quốc.”
Ta trầm mặc trở lại, vụt nhớ lại thảm cảnh bọn sa đạo đã sát hại những người bạn Tịnh thổ.
Đoạn huyết cừu này ta sẽ khắc ghi trong lòng không quên, khi ta từ Tịnh Thổ trở về, đó sẽ là lúc nợ máu trả bằng máu.
Mặt trời đã lên cao, nhưng không phát ra cái nóng khốc liệt như trên sa mạc.
Qua khỏi một khúc quanh, một chóp núi ngạo nhiên trồi dậy trước mắt.
Vượt qua nó, là tới được Tịnh thổ
Thải Nhu hô hấp trở nên gấp gáp, quay người lại, ngọc thủ vươn ra ôm lấy người ta, áp bờ mà kiều mỹ vào người ta, không dám ló ra ngoài nhìn.
Đằng sau truyền lại tiếng sủa vang của Đại Hắc, thì ra là một con thiên lý đà vì sợ độ cao nên đã dừng lại, Đại Hắc phụ trách kỷ luật của đội thiên lý đà, nên sủa ầm lên thúc chúng đi.
Ta bật cười, kéo sợi cương kìm Phi Tuyết giảm tốc độ xuống, việc này vốn dục tốc bất đạt. Đối với ba mươi con thiên lý đà còn lại này, ta đã phát sinh một thứ tình cảm thân thiết, chúng khiến ta nhớ lại những niềm vui và nỗi buồn, những nụ cười và nước mắt trong sa mạc.
Ta ôm lấy Thải Nhu, cưỡi Phi Tuyết, dẫn đầu đoàn phóng lên đỉnh núi.
Tịnh Thổ cuối cùng đã xuất hiện trước mắt ta.
Trong lòng ta chấn động, không dám tin vào chính mắt mình nữa, xuất hiện trước mặt ta là một dải sơn hà vô cùng tú mỹ, tráng lệ khiến người ta phải nín thở ngắm nhìn.
Trên cao mặt trời tỏa ánh nắng ấm áp, thanh lọc vạn vật dưới đất.
Dưới ánh nắng vàng rực rỡ, đất đai rộng lớn bằng phẳng trải ra vô cùng vô tận đến chân trời, mặt đất phủ một màu xanh ngăn ngắt, rừng rậm um tùm, những dòng sông xanh uốn khúc quanh co, từng đàn chim đang chao liệng trên thảo nguyên xanh biếc, tất cả mọi thứ đều đượm vẻ hoà bình, mỹ hảo. Trên không trung từng cụm mây trắng như bông tuyết lững lờ trôi, giống như mộng cảnh được thêu dệt một cách tinh tế, bầu trời cao xanh thăm thẳm, không gợn một chút tạp sắc nào.
Đây quả là một địa phương mỹ lệ mà chỉ có thần linh mới có thể tạo ra.
Thải Nhu đang núp trong lòng ta lúc này khẽ cụa quậy, ló đầu nhìn ngắm, vừa liếc nhìn một cái, thì “Ah” lên một tiếng, mở to mắt ngẩn ngơ nhìn, trên mặt xuất hiện vẻ mừng rỡ pha lẫn với kinh ngạc.
Ta quay đầu nhìn lại, đại mạc khiến người ta kinh sợ đã nằm tại phía sau.
Dãy Bộ Hỏa Sơn như một bức tường chia cánh hai thế giới hoàn toàn khác biệt.
Ta cuối cùng minh bạch vì sao tiền bối của Niên Gia đã quỵ xuống khi nhìn thấy Tịnh Thổ, đặc biệt là sau khi vượt qua thế giới đáng sợ của sa mạc.
Đối với tiên cảnh mỹ lệ này bất kỳ hành động phá hoại nào, cũng là một tội ác không thể tha thứ.
Vẫn núp trong lòng ta, Thái Nhu chỉ xa xa phía bên trái nơi những bông hoa vàng, hoa trắng điểm xuyết trên đại thảo nguyên như những vì sao, reo lên tán thưởng: “Xem kìa! Những bông hoa vàng và trắng giống như những hài đồng nam và nữ xinh xắn, giống như những ngôi sao nhỏ trên trời, biến thảo nguyên này thành một vườn hoa mỹ lệ.”
Ta nhẹ nhàng đáp: “Đúng vậy! Tịnh Thổ là một vườn hoa thiên nhiên vô cùng xinh đẹp.” Ta chợt chạnh lòng nhớ tới Đế quốc quê hương ta vẫn còn chìm trong chiến hỏa triền miên.
Thái Nhu chợt mở thật to mắt quan sát rồi nghi hoặc nói: “Màu đen ở phía kia là cái gì vậy?”
Ta lập tức dõi mắt cùng nhìn về hướng đó, thì thấy một đám khói đen đặc bốc cao ngoằn ngoèo in lên nền trời, trong lòng chấn động, “ Là khói đen. Không biết nơi đó vì sao bị cháy?”
Thái Nhu vịn vào khuỷu tay ta, bàn tay nàng biến thành lạnh ngắt, mặt trắng bệch, giọng run run nói: “ Chẳng lẽ ma trảo của Hắc Xoa đã vươn tới đây rồi ư?”
Ba ngày sau, bọn ta đến được nơi đã phát sinh ra cột khói đen đặc đó, mới hay đây là một thôn trấn vừa bị thiêu hủy.
Rời khỏi dẫy Bộ Hỏa Sơn đã ba ngày rồi mà tới lúc này bọn ta không gặp một người Tịnh Thổ nào.
Người dân trong thôn chắc là cực kỳ khẩn trương khi ly khai khỏi chốn này. Trên mặt đất còn vương vãi đầy rẫy y phục cùng đồ đạc, bát đĩa, thậm chí còn có cả những mảnh vàng bị nung chảy. Ta đã từng nhìn thấy loại tiền tệ được lưu hành ở Tịnh Thổ này từ Niên Gia, trên mặt đồng tiền có đúc nổi hình một tòa núi cao và một con sông lớn uốn quanh.
Ngọn núi trong đồ hình chính là ngọn núi cao nhất của đất Tịnh Thổ, tên gọi là “Trục Thiên”, còn về phần con sông kia, có thể là con sông quan trọng nhất ở Tịnh Thổ, nhưng Niên Gia chưa kịp cho ta biết tên nó.
Ẩn trong lòng ta Thái Nhu hạ giọng hỏi: “Bây giờ chúng ta phải làm gì?”
Ta nhìn kỹ lưỡng những dấu vết vương trên mặt đất, rồi nói: “Dân chúng ở đây tuy đã rời khỏi đây một thời gian rồi, cứ xem những vết bánh xe này thì hiển nhiên chở đầy đồ đạc nặng nề, tốc độ chắc sẽ rất chậm chạp. Nếu bọn ta gia tăng tốc độ đuổi theo thì có thể trong vài ngày tới sẽ bắt gặp bọn họ, lúc đó sẽ hỏi thăm xem thành bảo của Lạp Tát đại công ở đâu.
Tâm ý đã quyết, bọn ta dẫn đoàn thiên lý đà lên đường, đi theo dấu vết mà đám Tịnh Thổ nhân lưu lại.
Tịnh Thổ quả là vùng đất rộng lớn.
Đất đai phì nhiêu, có rất nhiều các dạng thức cây cỏ lạ lùng mọc lên, cổ thụ cao ngất trời, còn có các dòng suối trong mát nước chảy róc rách, hình thành một loạt các đầm nước trong xanh liên hoàn nối tiếp nhau, các loài thảo mộc thấp bé thân mềm mại rủ xuống đầm nước, hòa cùng với các loài cự thụ không biết tên gọi là gì vươn cao tạo nên một cảnh quan kỳ thú vô cùng.
Chỉ là những loại thực vật chưa từng thấy qua, cũng chưa từng nghe qua, khiến ta và Thái Nhu ngẩn ngơ không nói thành lời, quên hẳn những nhọc nhằn của cuộc hành trình.
Đại đa số các loại cây đều mọc chi chít trái quả, hình trạng thiên kì bách quái, bọn ta tha hồ hái lấy những trái quả tươi xem ra có vẻ ăn được, gom lại thành bọc lớn, thịt quả ngon ngọt, nuốt xong còn lưu lại hương thơm dịu mát.
Dưới chân cỏ non xanh tốt lạ thường, khiến cho Phi Tuyết và đám lạc đà quên cả bước đi.
Chỉ có Đại Hắc là không ăn cỏ, ríu rít bám lấy Thải Nhu nhìn nàng chuẩn bị cho nó mấy lát thịt khô.
Bầu trời ban đêm Tịnh Thổ lại càng duyên dáng, mỗi đêm khi dừng lại nghỉ ngơi, ta ôm lấy Thải Nhu và Đại Hắc, cùng ngắm nhìn những vì hàng vạn vì sao lấp lánh trên không trung.
Ba ngày sau, bọn ta bắt gặp trên đường một đạo hươu rừng đông đảo lạ thường, tràn ra lấp kín hết cả núi rừng, chắn hết cả lối đi. Thái Nhu nổi tính trẻ con, liên tục thúc giục ta đuổi theo sát sau đuôi chúng, đuổi mãi cho tới một con sông lớn.
Ngay sau đó, bọn ta được chứng kiến một cảnh tượng cực kỳ bi tráng khó quên.
Hươu rừng bắt đầu xuống nước.
Nhất thời, bờ sông dầy đặc hươu là hươu, đặc biệt là tại một khúc sông nông hẹp, đàn hươu con nào cũng muôn chen lên trước bơi qua.
Ta và Thái Nhu ngây người á khẩu, nhất thời hoàn toàn không hiểu nổi tại sao bầy hươu lại mạo hiểm sinh mệnh như vậy, liều mạng băng ngang qua khúc sông rộng khoảng bốn năm chục bộ, nước chảy rất xiết. Tiếng hươu rống to ầm ĩ vang khắp cả khu vực bờ sông.
Có tới cả trăm con hươu bị nước cuốn trôi, lạc khỏi đội hình vượt sông, trôi xuống dưới hạ lưu nước sâu, chúng rống lên bi thảm khi thấy cái chết truớc mắt. Ta trong lòng tuy rất muốn cứu chúng, nhưng lực bất tòng tâm.
Trên không xuất hiện một bầy chim ưng ăn thịt bay lượn, hiển nhiên chúng đã phát hiện ra đây là một bữa đại tiệc thịnh soạn khó tìm.
Ta ôm lấy Thải Nhu đang nước mắt ràn rụa vào lòng, một tay ôm lấy cổ Đại Hắc, ngẩn ngơ hồi lâu ngồi nhìn hoàng hôn buông xuống, cho đến khi con hươu cuối vượt qua được khúc sông, mới tiếp tục đi lên phía thượng du, bất nhẫn khi nhìn cảnh bầy chim ưng tranh ăn nội tạng của những xác hươu ven bờ.
Bọn ta tìm được một gò đất nhỏ và bắt đầu dựng lều. Sau khi Thải Nhu chuẩn bị đồ ăn cho Đại hắc, bọn ta tùy tiện hái lấy một số quả dại để lót dạ thì trời đã tối hẳn.
Thải Nhu tựa vào người ta, khẽ hỏi: “Vì sao đám hươu rừng đó biết sẽ gặp nguy hiểm, mà vẫn cứ vượt sông sang bờ bên kia?”
Ta lên tiếng cảm thán: “ Vì bọn chúng muốn sống”.
Thái Nhu ngạc nhiên lặp lại: “Muốn sống?”
Ta khẳng định: “Đúng vậy! Chúng buộc phải tháo chạy. Bờ bên này chiến hỏa liên miên đã khiến lãnh thổ của Lạp Tát đại công bị tàn phá nặng nề, chẳng những cuộc sống thanh bình của con người bị tàn phá, mà còn hủy hoại cả hoàn cảnh tự nhiên của vùng đất mỹ lệ này, vì thế bọn chúng phải bỏ chạy.”
Đúng lúc này, Đại Hắc đang nằm bên cạnh bỗng nhiên ngoảnh đầu nhìn về phía hạ du, lông trên mình dựng đứng lên, cả Phi Tuyết cũng lộ vẻ cảnh giác như vậy.
Ta tĩnh tâm chú lắng nghe, phía cuối nguồn lẫn trong tiếng nước chảy ào ào có tiếng ngựa hí truyền tới.
Ta không kịp dập tắt đống lửa trại, vội đeo thanh Ma Nữ Nhận ra sau lưng, nhắc Thái Nhu sẵn sàng ứng chiến, chế ngự con Đại Hắc không cho sủa ầm lên.
Phi Tuyết hiểu ý đi theo sát bên mình ta để tùy tiện bất cứ lúc nào ta cũng nhanh chóng leo lên yên ngựa.
Vô luận đối phương có thực lực thế nào, ta cũng có lòng tin để Thải Nhu và Đại Hắc cưỡi Phi Tuyết mà đột phá vòng vây, nhưng số thiên lý đà này một mình ta khó mà có thể lo cho bọn chúng được, may là ta đã chuẩn bị từ sớm, đem Trân Ô Thạch bỏ vào túi da buộc chặt lên lưng Phi Tuyết.
Tiếng vó ngựa vọng lại ngày càng rõ hơn, tối thiểu phải có trăm thớt ngựa đang tiến tới gần.
Thải Nhu ôm Đại Hắc theo sát sau lưng ta, đối với nàng mà nói, nơi thư thái nhất trên đời này, chính là trong vòng tay Lan Đặc ta, nơi an toàn nhất trên đời này, chính là đằng sau lưng ta.
Tiếng vó ngựa càng lúc càng gần, ánh lửa hồng lấp loé, đều là do những bó đuốc trên tay đối phương, đang bập bùng trong gió, phát ra.
Một đội võ sĩ mặc bận giáp trận mũ trụ hoàng kim, cờ xí giương cao, đội ngũ chỉnh tề nhằm thẳng hướng bọn ta tiến tới.
Đằng sau, Thái Nhu khẽ thở một hơi, kề sát tai ta nói nhỏ: “ Họ là chiến sĩ của Tịnh Thổ”.
Ta gật đầu nói: “Niên gia có kể chuyện về Thái dương chiến sĩ, đến yên ngưa cho chiến mã cũng đước dát vàng, tượng trưng cho ánh thái dương rực rỡ.”
Đội ngũ tăng tốc tiếp cận, đến lúc nhìn rõ đoàn lữ hành kỳ dị của bọn ta thì tỏ ra rất kinh ngạc.
Đoàn kỵ mã phi lại gần khoảng vài chục bộ thì dừng lại, tả hữu hai bên hộ vệ 1 vị đầu lĩnh, họ bật đuốc soi sáng toàn bộ xung quanh. Qua khe hở của chiếc kim khôi che kín mặt, vị đầu lĩnh ném cái nhìn sắc lạnh về phía ta và Thái Nhu.
Các kỵ sĩ tản ra theo hình chiếc quạt, vây bọn ta và đám thiên lý đà vào giữa.
Ta bắt chước tư thế đã học được ở Niên gia, dùng một tư thế chào hỏi trang trọng nhất của người Tịnh thổ ra mắt bọn họ, đoạn bắt trước theo ngữ điệu của Niên Gia nói một tràng bằng tiếng Tịnh thổ: “ Các Thái Dương Chiến Sĩ vĩ đại. Ta là bằng hữu của Niên gia tiên sinh, ta phụng theo …à.. à… ông ta …”
Thái Nhu đứng đằng sau ta khẽ nhắc nhở: “phụng theo di mệnh của ông ta”.
Ta không ngờ nàng còn thành thảo tiếng Tịnh Thổ hơn cả ta, vội nói theo: “Ta phụng di mệnh của ông ta giao phó mang Trân Ô Thạch tới cho Lạp Tát đại công.”
Vị đầu lĩnh Tịnh Thổ thoáng nghe đến danh tự của Niên gia thì tỏ ra chú ý, đến khi nghe tới hai từ “di mệnh” thì toàn thân chấn động, nhất thời ngây người trên lưng ngựa.
Những ngọn đuốc vẫn bập bùng soi sáng.
Dòng sông lớn vẫn ào ào chảy mãi không ngưng về xuôi.
Ta rốt cuộc đã đem tin Niên Gia đã chết trở về quê hương thân yêu của ông ấy. Vị đầu lĩnh nọ đưa tay nhấc mũ chiếc mũ giáp lên, lập tức một mớ tóc vàng óng ả như ánh dương quang bồng bềnh xoã ra ngoài, hạ xuống hai vai người nữ chiến sĩ xinh đẹp.
Thái Nhu ở phía sau kinh ngạc nói: “Thì ra là một nữ nhân, lại còn rất đẹp nữa.”
Nữ chiến sĩ mỹ lệ ngước mặt nhìn lên bầu trời đầu sao, hít sâu một hơn, cố nén nỗi bi thương đang trào dậy trong lòng, mới cúi xuống, nhìn ta lạnh lùng nói: “Niên gia lão sư thật sự đã chết? Là bọn sa đạo hay Dạ Lang nhân?”
Các đường nét của cô ta rõ ràng khoáng đạt, phân minh như đao cắt, thể hiện một sự kiên nghị quyết đoán, đặc biệt chiếc cổ rất cao, dáng thon thả thanh tú, biểu lộ một phong thái ưu nhã tuyệt vời khó tả, khiến người ta liên tưởng xuất thân của cô thuộc huyết thống cao quý phi thường.
Tịnh Thổ nữ nhân quả là có nét đẹp rung động lòng người.
Ta đảo mắt chậm rãi quan sát các chiến binh đang bao vây xung quanh, nhưng trừ phi ta có khả năng nhìn thấu qua lớp áo giáp phủ kín thân hình bọn họ, họa may mới phân biệt được ai nam ai nữ.
Thái Nhu từ đằng sau lưng đẩy ta một cái, đề tỉnh ta trả lời.
Ánh mắt ta quay về khuôn mặt tú lệ trắng hồng của nữ chiến sĩ nọ, nói: “Niên Gia tiên sinh trong cuộc ác chiến với lũ sa đạo, đã quang vinh tử chiến”.
Trong mắt cô ta bỗng trào lên một ánh lạnh lẽo như băng tuyết trừng trừng nhìn ta nói: “Kẻ ngoại nhân, tại sao ông ta chết, còn ngươi vẫn sống?”
“Xoảng!!!”
Một loại tiếng sắt thép va chạm nhau vang lên, hàng chiến sĩ phía trước nhất tề rút binh khí ra khỏi vỏ, đấy là những thanh đao cong hình trăng lưỡi liềm, chỉ cần ta trả lời một câu không thoả đáng, ắt sẽ không tránh khỏi xô xát.
Ta nhẫn nại giải thích: “Lúc bọn cướp kéo đến, ta lại đang ở nơi khác.
Thần quang trong mắt nữ chiến sĩ lại càng trở nên lăng lệ, gằn giọng nói từng từ một: “Bọn cướp sa mạc một khi ra tay, tấc cỏ không chừa lại, vậy mà ngươi còn cả đội ba mươi hai con thiên lý đà và Trân Ô Thạch?”
Thải Nhu bên cạnh ta lập tức lên tiếng, sử dụng Tịnh Thổ ngữ so với ta thì lưu loát và mạch lạc hơn nhiều, nói: “Bọn cướp sa mạc ập tới trong lúc Đại Kiếm Sư vắng mặt, chúng tấn công đà đội của Niên Gia tiên sinh, cướp sạch hàng hóa và bắt cả tôi mang theo, nếu không nhờ Đại Kiếm Sư truy đuổi, giết chết bọn chúng, thì hiện giờ cô chẳng thể nhìn thấy mẩu mẩu Trân Ô Thạch nào, cũng không thể nghe thấy những lời này của tôi được.”
Không ngờ tiểu nha đầu này lại có thể nói tiếng Tịnh Thổ tốt như vậy, rất có thể vì nàng có tình cảm đặc biệt với Tịnh Thổ nên chuyên tâm học, chứ không như ta vì vạn bất đắc dĩ mà buộc phải học.
Nữ chiến sĩ mỹ lệ cao quý kia mở to mắt nhìn Thái Nhu, vừa ngạc nhiên trước vẻ đẹp kiều diễm của nàng, vừa cân nhắc xem những lời của Thái Nhu có phải là sự thật hay không, đoạn quay sang phía ta hỏi: “Đại Kiếm Sư? Đó là danh hiệu hay tên của ngươi?”
Thái Nhu ưỡn ngực kiêu ngạo nói: “Tại Đế Quốc, Đại Kiếm Sư là danh hiệu để phong tặng cho vị kiếm thủ ưu tú nhất, được mọi người sùng bái, ngưỡng mộ.
Nữ chiến sĩ mĩ lệ khóe miệng nhếch lên cười khinh thị, rồi bất ngờ hô lên một tiếng, thúc ngựa xông tới, loan đao trong vỏ vút ra ngoài vẽ thành một đường vòng cung, như một áng mây phiêu hốt, khiến người ta không biết được đao thế sẽ bổ xuống đâu.
Đây là đặc điểm độc đáo của loan đao, hơn nữa lạo đao pháp mà cô ta sử dụng còn cao minh hơn gấp nhiều lần đao pháp của Niên gia.
Bốn phía xung quanh các chiến sĩ đều bạt xuất loan đao, hò hét trợ uy, nhất thời không gian xung quanh đều bao trùm sát khí đằng đằng.
Khoảng cách giữa bọn ta rất gần, cơ hồ vó ngựa cô ta vừa động, thì cả người lẫn ngựa đã xông tới ngay trước mặt ta và Thái Nhu đang đứng bên mé trái. Kình phong thốc vào mặt, loan đao cuộn gió nhằm đầu đánh tới, góc độ tấn công so với nhưũng thanh kiếm thẳng bình thường hiểm ác hơn nhiều, nhất thời khó mà tìm ra cách thức chống đỡ.
Thái Nhu khẽ kêu lên một tiếng thất kinh, mới định rút kiếm ra, thì đã bị ta nhẹ nhàng ẩn sang một bên, cùng lúc đó Ma Nữ Nhận sau lưng đa rời khỏi vỏ, nằm gọn trong tay trái ta buộc sau lưng liền tuốt khỏi vỏ bằng tay trái, mũi nhận khẽ đâm lên.
“Keeng!”
Kích trúng và mũi nhọn của ngọn loan đao.
Nữ chiến sĩ toàn thân chấn động, đao thế tán loạn, đao thứ hai không thể xuất ra nổi, bèn gấp gáp lùi ngựa trở về hậu phương, độ chừng hơn hai chục bộ , mới ghìm cương dừng ngựa.
Cô ta vẫn không quay đầu lại, chỉ dương thanh loan đao, xem xét chỗ mẻ nhỏ do bị Ma Nữ Nhận kích chúng.
Ta cũng cảm thấy rất ngạc nhiên, nguyên lai ta đã định một dùng một chiêu cắt đoạn thanh loan đao, xác lập uy thế, không ngờ lại chỉ có thểchém mẻ một miếng nhỏ, từ đó đủ biết đao của cô ta so với kiếm của Đế quốc tinh xảo và chất lượng hơn nhiều.
Bốn phía các chiến sĩ bỗng nhiên im bặt, nhất thời không khí trở nên cực kỳ trầm trọng.
Nữ chiến sĩ quay người lại, trong mắt lộ rõ vẻ kinh dị đến cực độ, trợn đôi mắt đẹp,nhìn ta tra Ma Nữ Nhận vào vỏ, hậm hực hỏi: “Đó là thanh kiếm gì?”
Ta mặc dù biết rõ cô ta đang ấn chứng trình độ kiếm thuật của ta, và cũng để xác định xem ta có năng lực để chiến thắng bọn sa đạo không. Dù vậy, ta trong lòng vẫn không vui nên lạnh lùng đáp: “Ta dùng đã kiếm của mình để hồi đáp nghi vấn của cô, bây giờ mong cô có thể đưa ta tới bái kiến Lạp Tát đại công, để ta đích thân giao cho ông ta số Trân Ô Thạch quí hiếm này, và ta cũng hoàn thành sự ủy thác của Niên gia, sau đó cô và ta sẽ không còn liên quan gì nữa.” Không hiểu vì sao ta nói một hơi dài như vậy bằng tiếng Tịnh thổ mà không chút va vấp, tựa như nước chảy mây trôi, rõ ràng rành mạch từ đầu đến cuối.
Thải Nhu đứng bên cạnh, khẽ kêu lên một tiếng nhỏ tán thưởng.
Nữ chiến sĩ đầu tiên trừng mắt nhìn, sau đó thì thần sắc trở nên u ám, cụp mắt xuống khẽ nói: Trên đời này đâu còn người nào có thể dẫn ngươi tới gặp Lạp Tát đại công nữa, bởi vì người đã về thượng giới, nơi yên nghỉ của những vì sao.”
Ta giật mình kinh hãi: “Ông ta chết rồi sao?”
Nữ chiến sĩ trong mắt ngân ngấn ánh lệ, nhưng vẫn kiên cường nén lại không để những giọt nước mắt trào ra, cố bình tĩnh kể lại: “Bẩy ngày trước, Lạp Tát đại công đã nghênh chiến cùng một trong thất đại thần tướng của Hắc Xoa Quỷ, Tịch Chúc Đồng, cách Thất Tinh Ki một trăm hai mươi dặm, ngài đã quang vinh tử chiến. Bọn ta đến di thể tôn quí của ngài cũng không dành lại được. Hiện tại, tất cả mọi người đều dã lùi vào trong thành, vòng phòng thủ cuối cùng của bọn ta.
Ta và Thái Nhu khẽ đưa mắt nhìn nhau.
Vẫn biết Tịnh Thổ đang ở trong vòng chiến hoả liên miên, nhưng không ngờ nó đã lan tới vùng biên giới xa xôi này. Lạp Tát đại công thì tử trận, lực lượng tác chiến chủ lực của vùng này cũng coi như đã bị tiêu huỷ, lực lượng tàn dư liệu có còn khả năng chiến đấu để đối đầu với đại quân của Hắc Xoa đông đảo hung bạo và thiện chiến được chăng?
Ta trầm giọng nói: “Hiện thời ai thừa kế chức vị của Lạp Tát đại công?”
Nữ chiến sĩ đáp: “Là con gái độc nhất của Lạp Tát đại công, nữ công tước Ny Nhã.”
Ta hỏi: “Hiện giờ cô ta ở đâu?”
Nữ chiến sĩ bình tĩnh nói: “Đang ở trước mặt ngươi.”.